Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

Báo cáo thường niên và

Mục đích của báo cáo thường niên là nhằm giới thiệu cho những nhà đầu tư một cách hầu hết các hoạt động trọng yếu và tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện nay và nhằm mục đích chính là dự đoán giá cổ phiếu và những khía cạnh liên quan như lãi trên mỗi cổ phiếu (EPS) của doanh nghiệp trong tương lai.

vì thế, việc trình bày báo cáo thường niên cũng như các số liệu tài chính trong quá khứ cần khiến cho sao giúp những nhà đầu tư dễ dự báo tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của công ty, đặc thù là EPS tương lai.

những nhà đầu tư vốn chủ sở hữu kỳ vọng vào cả cổ tức và sự phát triển trong giá trị cổ phiếu mà họ nắm giữ. các nhà đầu tư có rủi ro là với thể không nhận được các khoản tiền này. bởi vậy những nhà đầu tư tiêu dùng những báo cáo thường niên để: (1) dự đoán các khoản lãi kỳ vọng của họ và (2) Đánh giá các rủi ro gắn liền có những khoản tiền lãi này.

một. những điều mang thể khiến rẻ hơn trong các báo cáo thường niên.

Bạn có thể dễ dàng chọn kiếm trên Internet các báo cáo thường niên của những tập đoàn đa quốc gia nức danh thế giới niêm yết trên những thị trường chứng khoán quốc tế tại Mỹ hay Châu Âu như PG.com của tập đoàn P&G (Mỹ), Unilever.com của tập đoàn Unilever (Hà lan và Anh Quốc). Mặc dù ở Việt Nam đã với 1 số quy định các điều tối thiểu nên trình bày trên báo cáo thường niên cho những công ty niêm yết. Tuy nhiên những công ty sở hữu thể khiến cho được phổ biến hơn thế để giới thiệu về mình có các nhà đầu tư. Việc trình bày rẻ báo cáo thường niên là một công cụ hữu hiệu để giúp các nhà đầu tư hiểu hơn về doanh nghiệp mình. khi rộng rãi nhà đầu tư biết và đánh giá cao về doanh nghiệp của bạn, mang nghĩa là cổ phiếu của công ty bạn được nhà đầu tư đánh giá cao, bởi thế nó với thể ảnh hưởng rẻ tới giá cổ phiếu của công ty. bởi vậy bạn với thể tham chiếu các báo cáo thường niên của các tập đoàn nức danh thế giới cho báo cáo thường niên của mình. Sau đây là 1 số điểm mà tác giả cho rằng báo cáo thường niên của các doanh nghiệp Việt Nam mang thể làm thấp hơn.

1.1. Giới thiệu chiến lược của công ty: Bạn nên giới thiệu sở hữu nhà đầu tư chiến lược dài hạn của doanh nghiệp mà nó tạo phải sự khác biệt và sự thành công của doanh nghiệp. các chiến lược này giúp cho nhà đầu tư mang 1 loại nhìn về khả năng vững mạnh dài hạn của doanh nghiệp. Chiến lược của doanh nghiệp phải gắn ngay lập tức sở hữu các điểm mạnh của công ty cũng như trong mối địa chỉ mang môi trường buôn bán của công ty. hiện nay phổ biến doanh nghiệp Việt Nam đã mang phần trình bày về tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi của công ty, tuy nhiên nhiều công ty ko mang phần trình bày về chiến lược tăng trưởng công ty hoặc trình bày khá sơ sài. Điều này với thể làm nhà đầu tư có thể chưa thực sự yên tâm về khả năng phát triển dài hạn của doanh nghiệp bạn.

một.2. Rủi ro và quản trị rủi ro: Báo cáo thường niên buộc phải trình bày những rủi ro chính mà công ty có thể phải đối mặt trong năm tới (tức năm hiện nay của ngày phát hành báo cáo thường niên) và những hành động mà doanh nghiệp sẽ tiêu dùng để giảm thiểu các rủi ro xảy ra. Trình bày tốt phần này với nghĩa là công ty của bạn đã chuẩn bị cực kỳ tốt, đã dự liệu những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai và các biện pháp để ngăn ngừa nó. Điều này giúp những nhà đầu tư tin tưởng hơn các dự đoán kết quả và tình hình tài chính của bạn. Ví dụ Unilever đưa ra những dự báo rủi ro cho năm 2010 về kinh tế như sau: Suy giảm kinh doanh trong thời kỳ kinh tế toàn cầu suy giảm, tránh việc sụp đổ của những người dùng và nhà sản xuất. do vậy họ: Kiểm soát kỹ lưỡng những chỉ số kinh tế và thường xuyên dùng những mô hình ảnh hưởng của các kịch bản kinh tế khác nhau…

1.3. những số liệu tài chính quan trọng cần trình bày ít nhất là 5 năm liên tục, và nó cần với ý nghĩa so sánh. Để đánh giá gần như về 1 doanh nghiệp, các nhà đầu tư nên đánh giá những số liệu của ít nhất là 5 năm gần nhất, được trình bày sao cho lợi ích nhất cho việc so sánh. Về nguyên tắc bạn phải trình bày càng dài càng phải chăng từ 10-15 năm như vậy nhà đầu tư càng thấy cả giai đoạn lớn mạnh của doanh nghiệp. Báo cáo thường niên 2009 của P&G trình bày 11 năm từ năm 2009 tới năm 1999. các số liệu tài chính quan trọng có thể bao gồm như: Doanh thu thuần, Lãi kinh doanh, Lãi trước thuế, lãi sau thuế cho cổ đông doanh nghiệp mẹ, EPS cơ bản, EPS pha loãng, EPS của các hoạt động tiếp tục, EPS của những hoạt động không tiếp tục, chiếc tiền thuần từ hoạt động marketing, Tổng tài tài sản, tổng công nợ, tổng vốn chủ mang. hầu hết báo cáo thường niên hiện chỉ trình bày số liệu mang 2 hay 3 năm. mang 1 số công ty trình bày số liệu tài chính quan trọng 5 năm nhưng những số liệu EPS lại ko được điều chỉnh hồi tố lúc sở hữu các sự kiện chia thưởng cổ phiếu hay chia cổ tức bằng cổ phiếu. do vậy việc so sánh EPS qua các năm là ko mấy ý nghĩa hoặc thậm chí là làm sai lệch nghiêm trọng.

Báo cáo thường niên và những điều cần hoàn thiện

Báo cáo thường niên và các điều nên hoàn thiện

một.4. Điều chỉnh EPS hồi tố. nếu số cổ phiếu phổ thông hay cổ phiếu phổ thông tiềm năng đang lưu hành tăng như là kết quả của việc phát hành cổ phiếu thưởng hay chia tách cổ phiếu, trả cổ tức bằng cổ phiếu, việc tính EPS cơ bản và pha loãng cho hầu hết những kỳ được trình bày bắt buộc được điều chỉnh tương ứng. hiện tại một số công ty ko điều chỉnh EPS, 1 số khác có điều chỉnh EPS của năm trước, nhưng lại ko điều chỉnh trong các phần những chỉ tiêu tài chính quan trọng cho 5 năm, kết quả là những nhà đầu tư sở hữu được các thông tin EPS gốc mà nó ko sở hữu mấy ý nghĩa trong việc so sánh. Ví dụ BCTN của Sacombank ở trang 44 phần các chỉ tiêu tài chính chủ yếu qua những năm, ghi nguyên gốc EPS năm 2009 là 2.771 đ/CP, năm 2008 là 1.869 đ/CP, trong báo cáo kết quả kinh doanh cũng tương tự. Tuy nhiên trong phần thuyết minh số 25 trang 90 thì ghi cả EPS điều chỉnh , lúc đó EPS năm 2008 là một.623 đ/CP (thay vì một.869). Lẽ ra EPS năm 2008 trong tất cả những báo cáo của năm 2009 buộc phải được trình bày là EPS điều chỉnh (1.623 đ/CP), con số này mới có ý nghĩa cho việc so sánh để thấy được sự tăng trưởng của EPS qua các năm. Tương tự EPS của các năm 2007 đến 2005 trong số liệu tài chính qua những năm đều cần điều chỉnh tương ứng để thấy được sự tăng trưởng của EPS. Việc chỉ trình bày EPS điều chỉnh trong phần thuyết minh những báo cáo tài chính mà không trình bày trên những báo cáo quan trọng như Báo cáo kết quả và phần những chỉ tiêu tài chính quan trọng qua những năm, dễ khiến các nhà đầu tư hiểu nhầm, vì không hề ai cũng với thời gian đọc phần thuyết minh siêu dài của những báo cáo tài chính. Hơn nữa việc bắt buộc trình bày EPS điều chỉnh hồi tố là phải theo quy định của VAS và IFRS (CM báo cáo tài chính quốc tế).

1.5. EPS pha loãng (Diluted EPS). Việc tính EPS trở nên phức tạp lúc công ty mang những khoản trái phiếu chuyển đổi, chứng quyền và lựa chọn quyền sắm cổ phiếu hay các công cụ tài chính mà nó với thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông. VAS quy định chưa rõ ràng về EPS "suy giảm" tức pha loãng mặc dù chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 33 "yêu cầu buộc phải báo cáo kết quả buôn bán của các công ty cần trình bày cả hai chỉ tiêu EPS cơ bản và EPS pha loãng trên bề mặt của Báo cáo Kết quả buôn bán có mức độ vượt trội như nhau". đa dạng doanh nghiệp Việt Nam ngày nay vẫn chưa báo cáo EPS pha loãng. Cho những quyết định đầu tư, nhà đầu tư luôn phải buộc phải xem xét cả EPS cơ bản và EPS pha loãng. Trong tình huống mà doanh nghiệp có đa dạng trái phiếu chuyển đổi thì EPS pha loãng vô cùng quan trọng nó là một chỉ báo cho EPS của những năm tới chứ ko phải là EPS cơ bản. Ví dụ của ngân hàng ACB trong những năm mới đây là 1 điển hình mà EPS pha loãng là cơ sở chính xác hơn để những nhà đầu tư ước tính EPS của các năm đến.

Chỉ tiêu 2009 2008
EPS cơ bản (Đ/CP) 3.042 3.563
EPS pha loãng (Đ/CP) 2.751 2.979

Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp không trình bày chỉ tiêu EPS pha loãng. SSI cuối năm 2009 vẫn còn hơn 222 tỷ đ trái phiếu chuyển đổi sẽ chuyển thành 22.222.400 cổ phiếu mà nó sẽ chuyển đổi vào ngày 30.1.2010 để tăng vốn điều lệ từ một.533 tỷ đ lên một.755 tỷ đ. Tuy nhiên trong phần báo cáo tài chính của SSI năm 2009 ko trình bày chỉ tiêu siêu quan trọng đối có các nhà đầu tư là EPS pha loãng. ví như tính EPS pha loãng của SSI, nó sẽ giảm hơn 10% so sở hữu EPS cơ bản do cổ phiếu của SSI bị pha loãng 14%.

một.6. Trình bày Lương và thu nhập của Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc. Theo quy định của Việt Nam, Lương của TGĐ bắt buộc được báo cáo trước đại hội đồng cổ đông. đấy là một chỉ tiêu tương đối nhạy cảm ở Việt Nam. phần lớn công ty không đưa chỉ tiêu này vào báo cáo thường niên hoặc đưa vào số liệu tổng cho cả một nhóm ví dụ như HĐQT, Ban kiểm soát và Ban tổng giám đốc. Cũng có công ty đưa ra con số % lương, thu nhập, thù lao trên tổng số thu nhập như của Vinamilk mà thực chất thì những con số này đầy đủ ko với ý nghĩa đối sở hữu các nhà đầu tư. giả dụ 1 công ty trả lương tốt cho Tổng giám đốc, Chủ tịch HĐQT mà công ty vẫn mang kết quả buôn bán tốt, thì đấy là 1 doanh nghiệp thấp. Tuy nhiên giả dụ một công ty trả lương cho từng cá nhân lãnh đạo công ty siêu tốt nhưng doanh nghiệp với kết quả buôn bán thấp, điều đấy khiến cho những nhà đầu tư thấy bất an bởi tính bền vững của các nhà quản trị này, liệu họ với tiếp tục khiến cho ở đấy nữa hay không? Rủi ro mà nhà quản trị chuyển sang doanh nghiệp khác với mức thu nhập tốt hơn cực kỳ dễ xảy ra.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét